Dọc các đảo và bán đảo ở miền Trung có rất nhiều giếng nước ngọt mà người dân ở đó đặt cho một tên chung là “giếng vua”. Có lẽ sự kỳ bí của nó đã khiến người dân phải tôn thờ bằng việc gắn tên giếng với các vị vua hay phủ lên những giai thoại.
Giếng Gia Long trên đảo Lý Sơn. Ảnh: TRẦN ĐĂNG
Ở Cù Lao Chàm (xã đảo Tân Hiệp, TP.Hội An, Quảng Nam) có một giếng cổ nằm ở Xóm Cấm, cách di tích khảo cổ Bãi Làng 300m về phía tây nam. Người dân ở đây không gắn giếng nước này với tên một vị vua nào cả nhưng lại thêu dệt những giai thoại khá hấp dẫn chung quanh nó. Ví dụ như ai đi biển mà say sóng, chỉ cần uống vài ngụm nước của giếng này là… hết say ngay. Hoặc chàng trai nào chưa có người yêu, cố gắng hớp 7 ngụm nước thì sẽ có bồ ngay tắp lự, với cô gái thì phải ráng thêm hai hớp nữa thành 9 thì sẽ toại nguyện nỗi khao khát yêu đương. Lại có người khuyên, uống nước giếng Xóm Cấm sẽ sinh con theo ý muốn. Nhiều du khách đặt chân lên Cù Lao Chàm, nghe các giai thoại này rồi tin. Người yêu hoặc sinh con theo ý muốn thì chưa thấy đâu nhưng thấy… bảy ông trời vì phải uống nước lạnh đến căng bụng.
Còn giếng Xó La trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) thì khác. Dân đảo đặt luôn tên là giếng Gia Long. Nằm cách mép nước biển chừng dăm sải tay nhưng quanh năm không bao giờ cạn nước, lại không nhiễm mặn, đích thị là… giếng vua thì mới huyền nhiệm như vậy thôi. Giở các trang lịch sử viết về triều Nguyễn thì thấy rằng, Nguyễn Ánh, tức vua Gia Long chưa bao giờ đặt chân lên đảo Lý Sơn cả. Ấy thế mà dân hòn đảo này vẫn truyền nhau câu chuyện rằng, năm đó (không cụ thể năm nào), Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn vây đuổi, ông cùng quân sĩ giạt ra đảo Lý Sơn. Bấy giờ đang là mùa khô hạn, các giếng nước trên đảo đều cạn kiệt. Trong lúc tưởng như tuyệt vọng thì ông được báo mộng rồi sai người đến Xó La đào dăm bảy nhát cuốc đã thấy nước ngọt tuôn trào. Thế là vua tôi thoát hiểm!
Cũng như giếng Xó La ở Lý Sơn, giếng cổ của làng biển Thanh Thủy thuộc xã Bình Hải huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) được dân làng đặt tên là “giếng Vương”. Dân làng Thanh Thủy không nói “vương” ở đây là tên của ông vua nào, song địa danh này gắn với lịch sử mở cõi của cha ông ta thế kỷ 15. Mùa xuân năm 1471, trong cuộc “chinh Nam” vua Lê Thánh Tôn đặt chân lên động Hàng Đô (vùng Thanh Thủy - Vạn Tường thuộc xã Bình Hải ngày nay). Có lẽ giếng Vương của làng này là để chỉ vua Lê chăng? Nước giếng Vương cũng ngọt quanh năm và không bao giờ khô cạn kể cả những năm đỉnh hạn. Đặt tên làng Thanh Thủy (nước xanh trong) ngoài việc dựa vào đặc điểm của vùng biển luôn kín gió này, người dân còn dựa vào đặc thù của giếng nước làng này nữa.
Với người Đàng Hạ ở Sơn Đừng thì “giếng vua” của làng này kỳ bí hơn nhiều. Sơn Đừng là một làng nhỏ nằm sâu trong vịnh Vân Phong thuộc tỉnh Khánh Hòa. Người Đàng Hạ quần cư tựa vào một động cát sát mép biển. Hơn 40 gia đình nhưng không thấy giếng nước nào. Nghe tôi thắc mắc chuyện giếng nước, ông Chín Nôm, 86 tuổi, người cao niên nhất của làng, cầm tay khách dẫn ra sát mép nước biển. Ông cúi xuống rồi dùng tay moi thành một hố nhỏ, nói: “Giếng nước đây nè!”. Quả là ngọt thật. Lại gắn với vua Gia Long, cũng bị quân Tây Sơn truy đuổi và giạt đến Sơn Đừng, đêm nằm được báo mộng, rồi tìm ra nước ngọt bằng cách moi trên cát, ngay sát mép biển khi triều xuống. Riêng “giếng vua” ở Sơn Đừng thì… không thấy giếng đâu cả nhưng vẫn gắn với Gia Long!
Đặc điểm các giếng cổ
Rất dễ nhận ra các giếng nước cổ này vì đặc điểm của nó rất khác biệt với các giếng nước hiện nay. Đó là lòng giếng được “xây” bằng đá, thực chất là xếp chồng các lớp đá lên nhau để chống sạt lở. Kỹ thuật xếp đá rất tinh xảo vì các hòn đá cùng một kích cỡ, đều tăm tắp, không thấy độ vênh giữa các lớp đá. Đó là đá cuội, còn nếu là đá ong thì được mài giũa khá vuông vức, xếp chồng lên nhau rất mỹ thuật. Giữa các hòn đá, hoàn toàn không vôi vữa. Thành giếng thì hình tròn nhưng nền lại là hình vuông, có chừa một cổng để bước vào giếng. Hai bên cổng được xây trụ bằng đá ong, xù xì meo mốc, trông mất ma mị.
“Giếng” của người Đàng Hạ ở Sơn Đừng.Ảnh: TRẦN ĐĂNG
Một đặc điểm nữa là các giếng nước này ở gần biển nhưng không bao giờ bị nhiễm mặn, kể cả những năm khô hạn. Chủ nhân của các giếng cổ tỏ ra sành sõi về thủy văn, địa lý. Họ chọn một điểm mà nước ở các nơi trong vùng sẽ “gom” về, để đào giếng. Như giếng Gia Long ở Lý Sơn, có cảm giác như nước cả đảo được “gom” về đây nên dù là hòn đảo khô khốc mà nước ngầm bổ sung cho giếng luôn dồi dào, chưa bao giờ thấy giếng này cạn nước cả. Có những năm hạn nặng, giếng nước này còn cung cấp cho hơn 100 gia đình ở đảo Bé nữa.
Riêng ở làng Sơn Đừng, dù không thấy giếng nước nào nhưng người Đàng Hạ vẫn tìm ra nước ngọt do họ “nhìn” thấy những “mỏ” nước trầm tích trong lòng cát. Đợi thủy triều rút xuống là nước từ trên các ngọn núi sau làng tuôn về các khe luồn dưới lớp cát, theo quy luật “nước chảy về chỗ trũng”. Vì mạch nước ngầm quá mạnh nên nó có thể tống khứ tất cả nước mặn còn nán lại trong những cái “giếng” do người dân tự moi trên cát. Nhờ vào đặc điểm này, người Đàng Hạ đã sống hàng bao thế kỷ nay nhưng chẳng cần đào giếng mà vẫn có nước ngọt dùng quanh năm là vậy.
Dù phải trải qua bao cuộc binh đao và loạn lạc, qua bao vật đổi sao dời nhưng tuyệt nhiên người dân trong làng có các giếng cổ ấy không bao giờ lấp giếng, dù ngày nay, nhiều nơi đã xài nước máy, như làng Thanh Thủy. Họ đã thiêng liêng hóa các giếng nước ấy như một phần lịch sử của làng mình. Đặt tên là giếng vương hay giếng vua nhưng người dân thừa biết, chủ nhân của những giếng nước cổ này, không ai khác ngoài người Chăm. Di tích khảo cổ Bãi Làng ở Cù Lao Chàm chỉ cách giếng Xóm Cấm vài trăm mét, hoặc di chỉ khảo cổ học Xóm Ốc và Suối Chình ở Lý Sơn cách giếng Gia Long không xa đã nói lên rằng, từ hàng nghìn năm trước, con người đã có mặt trên những hòn đảo này và họ đã để lại các dấu vết của một nền văn minh sơ khai. Chủ nhân những hiện vật từ các hố khai quật ấy được các nhà khảo cổ xếp vào thời kỳ hậu Sa Huỳnh - tiền Chămpa.
Chúng ta đều biết, người Chăm rất giỏi phong thủy, dù vậy để có những giếng nước không bao giờ cạn ấy, họ cũng đã trải qua một thời gian dài “sàng lọc” tìm kiếm, dạm thử để chọn ra một nơi tối ưu làm “kho” cung cấp nước ngọt cho mình. Bản thân chữ Xó La - một tên gọi khác của giếng Gia Long trên đảo Lý Sơn, đã đậm đặc tiếng Chăm rồi. Hoặc như người Đàng Hạ ở Sơn Đừng họ chẳng cần đào giếng nhưng “kho” nước ngọt trầm tích trong lòng cát ấy chắc chắn là tổ tiên họ phải trải qua rất nhiều thời gian để phát hiện ra “kho” nước kỳ diệu ấy. Có vậy họ mới có thể tồn tại hàng bao đời nay giữa một bên là động cát còn một bên là biển mặn như thế.
Người Chăm luôn luôn bí ẩn với chúng ta. Bí ẩn không chỉ ở những ngọn tháp sừng sững bên trời luôn thách đố trước thời gian mà họ còn bí ẩn ngay với các giếng nước cổ nữa. Vua hay vương gì cũng đã thành tro bụi, riêng các giếng cổ ấy thì vẫn còn mãi với thời gian.
Theo Báo QNO